Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính điển hình bởi các nốt mụn nước chứa dịch xuất hiện trên da hoặc niêm mạc của người bệnh. Thủy đậu có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt ở trẻ em và người lớn bị suy giảm miễn dịch. Ước tính, có khoảng 60 triệu ca mắc thủy đậu trên toàn thế giới mỗi năm, được đánh giá là bệnh khó tránh khỏi nếu chưa có miễn dịch tự nhiên hay tiêm vắc xin phòng bệnh.
BS. Phan Nguyễn Trường Giang (VNVC) cho biết, trước khi vắc xin thủy đậu được cấp phép, Mỹ ghi nhận 2.262 ca tử vong trong 25 năm, trung bình 90 ca mỗi năm, 59% là trẻ em và thanh thiếu niên. Điều này cho thấy thủy đậu không chỉ gây tổn thương da mà còn có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể, gây biến chứng nguy hiểm, thậm chí đe dọa tính mạng.
Thủy đậu (tên tiếng Anh: Chickenpox, tên y khoa: Varicella) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Varicella Zoster (VZV) gây ra, xuất hiện với các triệu chứng điển hình như phát ban ngứa, nổi mụn nước, phỏng rộng chứa đầy dịch mủ có đường kính từ 1 – 3mm. Với đặc điểm đó, người dân Việt Nam còn có những tên gọi khác dành cho bệnh thủy đậu như trái rạ, phỏng rạ, cháy rạ, canh châu… Bên cạnh đó, thủy đậu còn biểu hiện với các triệu chứng khác như sốt, mệt mỏi, đau cơ, đau đầu, chán ăn, buồn nôn và nôn mửa.
Bệnh thủy đậu rất dễ lây lan cho người chưa tiêm vắc xin phòng ngừa hoặc chưa từng nhiễm VZV trước đây. Hầu hết những người từng mắc thủy đậu trước đây sẽ có khả năng miễn dịch suốt đời, chỉ một vài trường hợp rất hiếm gặp bị tái nhiễm lại thủy đậu do bị suy giảm miễn dịch. Bất kỳ ai cũng có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu, kể cả trẻ nhỏ và người lớn, đặc biệt là người chưa có kháng thể với virus thủy đậu.
Virus gây bệnh thủy đậu được cho là có nguồn gốc từ châu Phi hàng triệu năm trước. Năm 1767, bác sĩ người Anh William Heberden lần đầu tiên phân biệt thủy đậu với đậu mùa và xác nhận khả năng miễn dịch suốt đời sau khi mắc bệnh. Đến năm 1875, Rudolf Steiner chứng minh thủy đậu có thể lây qua dịch từ mụn nước. Năm 1888, Von Bokay ghi nhận mối liên hệ giữa thủy đậu và zona thần kinh khi trẻ từng âm tính với thủy đậu phát bệnh sau khi tiếp xúc với người bị zona.
Tại Việt Nam và các quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, mùa bùng phát thủy đậu thường trong giai đoạn thời tiết nóng ẩm, bắt đầu từ giữa tháng 3 và tháng 5 hàng năm, tạo điều kiện cho các các loại virus, vi khuẩn phát triển và lây lan trong cộng đồng.
Bệnh thủy đậu với biểu hiện đặc trưng là phát ban ngứa, nổi mụn nước, phỏng rộng chứa đầy dịch mủ có đường kính từ 1 – 3mm.
Bệnh thủy đậu gây ra bởi virus Varicella Zoster (VZV) – một loại virus herpes, thường lây lan từ người sang người thông qua các giọt bắn hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ các nốt mụn nước trên da. Người nhiễm bệnh có thể phóng thích virus vào không khí qua các hành động ho, hắt hơi, nói chuyện và người khỏe mạnh hít phải hoặc tiếp xúc trực tiếp với virus này qua các dịch viêm trên da của người bệnh sau sẽ bị lây bệnh.
Bên cạnh đó, phần chất lỏng bên trong những mụn nước có thể lây nhiễm khi chúng bị vỡ ra. Hầu như bất kỳ tiếp xúc với người bị thủy đậu đều dẫn đến nhiễm trùng – trừ trường hợp đã tiêm vắc xin phòng ngừa hoặc đã từng bị thủy đậu trước đây.
Bất kỳ ai chưa có miễn dịch tự nhiên (chưa từng bị thủy đậu) hoặc chưa tiêm vắc xin phòng ngừa thủy đậu đều có nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, có một số đối tượng khi mắc bệnh thủy đậu có thể biểu hiện triệu chứng nghiêm trọng và nguy hiểm hơn cụ thể như:
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC Hoa Kỳ), bệnh thủy đậu có khả năng lây lan nhanh chóng từ người bệnh sang người chưa từng mắc bệnh. Theo số liệu thống kê, có tới 90% những người không có miễn dịch khi tiếp xúc gần với người bị thủy đậu sẽ bị nhiễm bệnh.
Thông thường, người bị thủy đậu có thể lây bệnh cho người khác trong khoảng 1 đến 2 ngày trước khi phát ban, cho đến khi tất cả các tổn thương từ mụn nước bị đóng vảy mới kết thúc. Một số rất ít những người đã tiêm vắc xin thủy đậu cũng có thể mắc bệnh do miễn dịch suy giảm nhưng thường biểu hiện rất nhẹ như không sốt hoặc sốt nhẹ, xuất hiện ít hoặc thậm chí không có mụn nước, ít biến chứng, thường không phải nhập viện điều trị. Đồng thời, thời gian khỏi bệnh sẽ nhanh hơn những người không tiêm vắc xin.
Bên cạnh đó, virus thủy đậu có thể lây truyền từ mẹ sang con. Những phụ nữ mang thai bị thủy đậu trong thai kỳ có thể lây bệnh cho con trước khi sinh. Hoặc mẹ bỉm bị thủy đậu có thể lây cho trẻ sơ sinh/ trẻ nhũ nhi sau khi sinh.
Người chưa có miễn dịch với thủy đậu có thể mắc bệnh khi tiếp xúc gần người bị zona thần kinh, do cùng virus VZV gây ra. Sau khi khỏi thủy đậu, virus vẫn tồn tại trong hạch thần kinh và có thể tái hoạt động thành zona nếu miễn dịch suy giảm, căng thẳng, tuổi cao… Người chưa từng bị thủy đậu hoặc chưa tiêm vắc xin có thể nhiễm virus khi hít phải hạt từ mụn nước zona. Thời gian ủ bệnh thủy đậu sau phơi nhiễm thường kéo dài 10–21 ngày.
Bệnh thủy đậu có khả năng lây lan nhanh chóng từ người bệnh sang người chưa từng mắc bệnh hoặc chưa tiêm vắc xin phòng bệnh.
Khi mới nhiễm virus thủy đậu, thường bệnh sẽ không bùng phát triệu chứng ngay lập tức. Thời gian ủ bệnh khoảng từ 10 – 21 ngày sau khi tiếp xúc với virus, trung bình là khoảng 14 – 16 ngày. Tùy theo sức đề kháng mỗi người mà thời gian ủ bệnh sẽ thay đổi khác nhau.
Trong thời gian đầu, người bệnh sẽ phát triển triệu chứng phổ biến của bệnh thủy đậu là phát ban ngứa hay còn gọi là nổi trái rạ, thường nổi trước tiên ở vùng mặt, ngực, lưng và sau đó lan dần ra khắp cơ thể. Trong trường hợp nghiêm trọng, các nốt phát ban có thể hình thành trong miệng, mắt, hậu môn hoặc bộ phận sinh dục.
Trong giai đoạn khởi phát, người bệnh sẽ phát triển các nốt sần ngứa, thường có màu hồng hoặc đỏ, cùng màu hoặc sẫm màu hơn so với da của người bệnh. Các nốt ban đỏ này sẽ cực kỳ ngứa sau khoảng 12 – 14 giờ. Theo bác sĩ, có khoảng 250 – 500 nốt sần có thể xuất hiện trên khắp cơ thể người bệnh thủy đậu.
Ngoài ra, vào thời điểm phát bệnh, người bị thủy đậu có thể xuất hiện các triệu chứng khác như sốt nhẹ, nhức đầu, cơ thể mệt mỏi, thậm chí một số bệnh nhân còn có hạch sau tai, kèm theo viêm họng.
Ở giai đoạn toàn phát, các nốt ban sẩn này sẽ biến thành các mụn nước nhỏ có đường kính 1 – 3mm, chứa đầy dịch màu trắng đục bên trong. Trong trường hợp có bội nhiễm vi khuẩn, phần dịch có thể sẽ kèm theo chảy mủ. Các nốt mụn này sẽ mọc nhiều ở vùng ít va chạm như bên sườn, nách, eo hoặc có thể xuất hiện dày đặc ở mặt và thân mình.
Những mụn nước của bệnh thủy đậu thường không nổi cộm lên đồng loạt mà sẽ xuất hiện theo từng đợt. Nhiều mụn nước liên tiếp mọc lên, trong khi những mụn khác đóng vảy. Các đốm ban mới có thể tiếp xúc xuất hiện theo từng đợt trong vòng 3 – 5 ngày tính từ sau khi phát ban. Do đó, trên một vùng da có thể xuất hiện nhiều giai đoạn tổn thương khác nhau do thủy đậu từ phát ban, nổi sẩn, mọc mụn nước, đóng vảy hoặc thành sẹo.
Tại giai đoạn toàn phát, ngoài triệu chứng điển hình như các mụn nước chứa dịch, bệnh nhân có thể sẽ bắt đầu bị sốt cao, chán ăn, buồn nôn, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi và ngứa ngáy, khó chịu do mụn nước. Mặc dù bệnh thủy đậu có thể lây nhiễm ở tất cả giai đoạn nhưng giai đoạn toàn phát sẽ nguy cơ lây nhiễm cho người khác cao nhất.
Giai đoạn phục hồi của bệnh thủy đậu thường kéo dài khoảng 1 – 2 tuần, khi các mụn nước bắt đầu lành lại. Sau khi các mụn nước vỡ ra và khô lại, tạo thành vảy và bong ra, để lại vết thâm dưới da, thậm chí là sẹo sau này. Do đó, giai đoạn này cần hết sức cẩn trọng trong việc vệ sinh các vết thủy đậu, tránh để nhiễm trùng, gây mất thẩm mỹ về sau.
Hình ảnh mụn nước của bệnh thủy đậu qua các giai đoạn.
Bệnh thủy đậu có thể để lại sẹo nếu không được vệ sinh và kiêng khem đúng cách. Trong thời gian phát bệnh, việc làm vỡ các mụn nước bằng cách gãi hoặc chạm mạnh vào có thể dẫn đến nhiễm trùng thứ phát ở da người bệnh và gây ra sẹo. Lượng sẹo để lại phụ thuộc phần lớn vào kích thước của các mụn nước. Nguy cơ để lại sẹo thấp nhất là khi các lớp vảy tự bong ra và bắt đầu lành lại.
Một số loại sẹo thủy đậu thường thấy bao gồm:
Thông thường, sẹo thủy đậu không để lại sẹo vĩnh viễn. Sau khi nhiễm trùng, phải mất từ 6 – 12 tháng thì sẹo mới mờ hoàn toàn. Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng, tình trạng sẹo sẽ trở nên nghiêm trọng và kéo dài lâu hơn bình thường, thậm chí vĩnh viễn.
Bệnh thủy cực kỳ nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm ở người có các yếu tố nguy cơ như trẻ sơ sinh, phụ nữ mang thai, người suy giảm miễn dịch, rất dễ dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Nhiều người vẫn hay lầm tưởng bệnh thủy đậu chỉ là bệnh ngoài da nên khá chủ quan và thường quan tâm hơn đến vấn đề mụn nước để lại sẹo gây mất thẩm mỹ. Thực tế, bệnh thủy đậu có thể để lại hậu quả nặng nề hơn như thế, một số biến chứng bệnh thủy đậu gây ra, cụ thể như:
Đặc biệt, phụ nữ mang thai mắc thủy đậu có nguy cơ cao gặp biến chứng nghiêm trọng cho cả mẹ và thai nhi. Nếu nhiễm trong 20 tuần đầu, thai nhi có thể bị dị tật bẩm sinh (hội chứng thủy đậu bẩm sinh), sẹo da, tật đầu nhỏ, tổn thương mắt, não, tiêu hóa… Nếu mẹ bị thủy đậu sát ngày sinh, trẻ sơ sinh có thể mắc bệnh trong những tuần đầu đời, thậm chí nguy hiểm tính mạng.
Bệnh thủy đậu có nguy cơ gây ra các biến chứng nguy hiểm như nhiễm trùng da và mô mềm, nhiễm trùng phổi, viêm não…
Bác sĩ thường chẩn đoán bệnh thủy đậu dựa trên phát ban điển hình trên da và loại trừ với một số bệnh có triệu chứng hoặc biến chứng gần giống, cụ thể như: đậu mùa, đậu mùa khỉ, chốc lây dạng bọng nước…. Đôi khi bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm máu hoặc dịch phồng rộp trên da nhằm phát hiện virus gây bệnh chính xác, nhưng chỉ khi bệnh phát triển theo cách bất thường mới thực hiện.
Căn cứ theo Tiểu mục 3 Mục 3 Bệnh thủy đậu tại Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh truyền nhiễm được ban hành kèm theo Quyết định 5642/QĐ-BYT năm 2015, việc chẩn đoán bệnh thủy đậu bao gồm các bước như sau:
Chẩn đoán dựa trên các nốt phát ban trên da của người bệnh với các dấu hiệu phổ biến như:
Chẩn đoán xác định thủy đậu chủ yếu dựa trên lâm sàng và không cần xét nghiệm khẳng định. Ban thủy đậu đặc trưng dạng phỏng nhiều lứa tuổi rải rác toàn thân ở người bệnh có tiền sử tiếp xúc với người bị thủy đậu là những gợi ý cho chẩn đoán.
Các xét nghiệm khẳng định thủy đậu không sẵn có trong lâm sàng và rất ít khi được sử dụng; bao gồm:
Cần phân biệt thủy đậu với một số bệnh có phát ban dạng phỏng nước như bệnh tay chân miệng liên quan tới Enterovirus, bệnh do Herpes simplex, viêm da mủ và một số bệnh khác.
Bệnh thủy đậu không có thuốc điều trị đặc hiệu do đó biện pháp chữa bệnh thường là điều trị triệu chứng và thuyên giảm hoặc ngăn chặn các biến chứng nguy hiểm, cụ thể như sau:
Theo Tiểu mục 4 Mục 3 Bệnh thủy đậu tại Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh truyền nhiễm được ban hành kèm theo Quyết định 5642/QĐ-BYT năm 2015, hướng dẫn điều trị bệnh thủy đậu được thực hiện như sau:
Nguyên tắc điều trị: Thường chủ yếu là điều trị hỗ trợ, bao gồm hạ nhiệt, giảm sốt (nếu có) và chăm sóc tổn thương da cẩn thận nhằm hỗ trợ giảm mức độ nặng và rút ngắn thời gian bệnh, đặc biệt có chỉ định đối với những trường hợp suy giảm miễn dịch.
Trong trường hợp người bệnh xuất hiện tình trạng bội nhiễm vi khuẩn và xuất hiện các biến chứng nguy hiểm khác:
Khi chăm sóc và điều trị bệnh thủy đậu tại nhà, cần lưu ý tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Trong trường hợp xuất hiện sốt cao, người bệnh cần uống thuốc hạ sốt, bổ sung vitamin nhóm B, C… đầy đủ. Ngoài ra, người bệnh có thể chấm các dung dịch xanh methylen hoặc thuốc tím 1/4000 vào các nốt loét.
Trong trường hợp phát ban thủy đậu gây ngứa và các mụn nước vỡ ra có thể gây đau nhói. Để giảm các triệu chứng này, có thể thực hiện các hành động sau:
Bên cạnh đó, người bệnh cần lưu ý một số điều sau:
Khi chăm sóc và điều trị bệnh thủy đậu tại nhà, cần lưu ý tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ.
Bệnh thủy đậu có khả năng tái phát sau khi điều trị nhưng rất hiếm gặp do cơ thể đã tạo ra miễn dịch khá bền vững sau khi nhiễm bệnh. Những đối tượng dễ tái phát thường là trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi hoặc người đã trải qua các triệu chứng nhẹ của bệnh thủy đậu lần đầu tiên, khả năng hình thành kháng thể chống lại virus chưa đủ mạnh để ngăn chặn sự tái nhiễm bệnh thủy đậu trong lần tiếp theo. Tuy nhiên, những lần tái phát sau thường có tổn thương nhẹ, ít xuất hiện biến chứng và nhanh hồi phục hơn rất nhiều so với lần đầu tiên.
Theo các chuyên gia, cách tốt nhất để phòng ngừa bệnh thủy đậu là tiêm vắc xin phòng bệnh. Trung tâm Kiểm soát và phòng dịch bệnh (CDC Hoa Kỳ) ước tính, có khoảng 3,5 triệu ca bệnh thủy đậu, 9.000 trường hợp nhập viện và 100 ca tử vong được ngăn ngừa mỗi năm nhờ có vắc xin. Kể từ vắc xin phòng thủy đậu ra đời vào năm 1995, các đợt bùng phát bệnh thủy đậu đã giảm 78% từ 147 vào năm 2005 xuống còn 33 đợt bùng phát vào năm 2012 (số liệu từ 6 tiểu bang tại Hoa Kỳ).
Danh mục vắc xin phòng bệnh thủy đậu bao gồm:
Tên vắc xin | Phòng bệnh | Lịch tiêm |
Varivax (Mỹ) | Phòng bệnh thủy đậu do virus Varicella Zoster gây ra. | Trẻ từ 12 tháng đến 12 tuổi có lịch tiêm 2 mũi:
– Mũi 1: lần tiêm đầu tiên. – Mũi 2: 3 tháng sau mũi 1 (ưu tiên) hoặc hẹn mũi 2 lúc 4-6 tuổi. Trẻ từ 13 tuổi trở lên và người lớn có lịch tiêm 02 mũi: – Mũi 1: lần tiêm đầu tiên. – Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 01 tháng. |
Varicella (Hàn Quốc) | ||
Varilrix (Bỉ) | Trẻ từ 09 tháng đến 12 tuổi có lịch tiêm 2 mũi:
– Mũi 1: lần tiêm đầu tiên. – Mũi 2: 3 tháng sau mũi 1. Trẻ từ 13 tuổi trở lên và người lớn có lịch tiêm 2 mũi: – Mũi 1: lần tiêm đầu tiên. – Mũi 2: cách mũi 1 ít nhất 1 tháng. |
Bên cạnh việc tiêm vắc xin ngừa bệnh, người dân có thể phòng tránh bệnh thủy đậu bằng các cách sau:
Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây tổn thương ngoài da, trong một số trường hợp có thể tác động đến các cơ quan quan trọng bên trong cơ thể như phổi, tim, não… từ đó gây ra các biến chứng nguy hiểm, có thể đe dọa đến tính mạng của người bệnh. Do đó, cần tích cực thực hiện các biện pháp phòng bệnh bằng cách chủ động tiêm đầy đủ các mũi vắc xin phòng thủy đậu càng sớm càng tốt, đồng thời thực hiện các khuyến cáo theo chỉ định của bác sĩ.