Bệnh thủy đậu ở trẻ em là tình trạng nhiễm trùng cấp tính vô cùng phổ biến, rất dễ lây lan và bùng phát thành dịch. Ước tính, có đến 90% dân số bị mắc thủy đậu từ thời niên thiếu. Hầu hết các trường hợp trẻ mắc thủy đậu đều lành tính và có khả năng phục hồi tốt nếu được chăm sóc và điều trị đúng cách. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu không được điều trị kịp thời, chăm sóc đúng cách, trẻ mắc thủy đậu có nguy cơ rất cao đối diện với các biến chứng nguy hiểm, có thể dẫn đến tử vong.
Bác sĩ Phan Nguyễn Trường Giang (VNVC) cho biết: Theo CDC, đầu thập niên 1990, Hoa Kỳ ghi nhận hơn 4 triệu ca thủy đậu mỗi năm, với 10.500–13.500 ca nhập viện và 100–150 ca tử vong. Đáng lo ngại, hơn 90% ca mắc, 70% ca nhập viện và một nửa số ca tử vong xảy ra ở trẻ em. Bệnh thủy đậu ở trẻ em không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe mà còn tạo gánh nặng cho gia đình, nhân viên y tế và hệ thống điều trị, cả về chi phí lẫn áp lực chăm sóc y khoa.
Bệnh thủy đậu ở trẻ em, còn gọi là bệnh trái rạ, là bệnh nhiễm trùng cấp tính do virus Varicella Zoster (VZV) gây ra. Bệnh có khả năng lây lan rất cao qua giọt bắn, khí dung hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết hô hấp, với tỷ lệ lây nhiễm thứ phát lên từ 61 – 100%. Tại Việt Nam, đây là một trong 5 bệnh truyền nhiễm phổ biến dễ bùng phát thành dịch. Trẻ dưới 12 tháng tuổi dễ gặp biến chứng nặng và có nguy cơ mắc zona sau này cao gấp 4,5 lần so với các độ tuổi khác.
Triệu chứng điển hình là phát ban, nổi đốm ngứa, sau đó chuyển thành mụn nước và đóng vảy. Nhiều phụ huynh chủ quan cho rằng đây chỉ là bệnh ngoài da, nhưng thực tế, bệnh thủy đậu ở trẻ em có thể gây viêm phổi, viêm não, rối loạn thần kinh, co giật, hôn mê và tử vong nếu không điều trị kịp thời.
Bệnh thủy đậu thường xuất hiện vào mùa đông/xuân hoặc những tháng mát/khô và có thể xảy ra thành các đợt bùng phát lớn sau mỗi 2 – 5 năm. Tại Việt Nam và các quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mùa thủy đậu thường bùng phát trong giai đoạn thời tiết nóng ẩm, bắt đầu từ giữa tháng 3 và tháng 5 hàng năm, tạo điều kiện cho các các loại virus, vi khuẩn phát triển và lây lan trong cộng đồng.
Thủy đậu có mặt ở tất cả các quốc gia và gây ra khoảng 7.000 ca tử vong hàng năm. Ở các nước ôn đới, đây là một căn bệnh phổ biến ở trẻ em, với hơn 9.000 ca nhập viện hàng năm tại Hoa Kỳ. Theo ghi nhận, tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhóm tuổi từ 4 – 10 tuổi với tỷ lệ nhiễm bệnh là 90%. Các trường hợp thứ phát trong các lần tiếp xúc trong gia đình có xu hướng mắc bệnh nặng hơn các trường hợp mắc bệnh chính.
Bệnh thủy đậu biểu hiện với các nốt phát ban đỏ, tiến triển thành mụn nước chứa chất dịch đục.
Bệnh thủy đậu ở trẻ em gây ra bởi virus Varicella Zoster (VZV), thuộc họ Herpesviruses, có hình khối, kích thước 150 – 200 nm, phần vỏ ngoài của VZV bằng lipid, phần lõi có chứa phân tử ADN chuỗi đôi. Loại virus này có thể tồn tại được vài ngày trong lớp vảy bong ra từ mụn nước và dễ bị tiêu diệt bởi thuốc sát khuẩn. Đáng lưu ý, VZV có thể vẫn còn tồn tại trong cơ thể tại dây thần kinh cảm giác dù đã khỏi bệnh và có thể tái hoạt động gây bệnh Zona thần kinh trong điều kiện thuận lợi.
Virus Varicella Zoster gây bệnh bằng cách xâm nhập vào niêm mạc đường hô hấp qua các bộ phận như mũi, miệng, họng, kết mạc mắt… từ các hành động như ho, hắt hơi… hoặc lây qua chất dịch từ mụn nước bị vỡ.
Bất kỳ trẻ em hoặc người lớn nào chưa có miễn dịch tự nhiên (chưa mắc bệnh thủy đậu) hoặc chưa được tiêm vắc xin phòng ngừa đều có nguy cơ mắc bệnh. Thực tế, thủy đậu ở trẻ em rất dễ lây lan, virus thủy đậu có thể lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp với các giọt bắn không khí khi hắt hơi, ho hoặc qua tiếp xúc với chất dịch từ nốt phát ban vỡ ra.
Bệnh thủy đậu dễ lây nhất từ 1 – 2 ngày trước khi các nốt ban xuất hiện cho đến khi các khô và đóng vảy (khoảng 5 – 6 ngày sau khi phát ban). Trong hầu hết các trường hợp nhiễm bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 2 – 4 tuần. Một số trường hợp nhiễm trùng vi khuẩn thứ phát, gây ra các biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe, thậm chí đe dọa đến tính mạng.
Thủy đậu ở trẻ nhỏ có dấu hiệu xuất hiện các mụn nước li ti, màu đỏ và tản phát rải rác trên bề mặt da của trẻ. Bệnh thủy đậu thường diễn ra trong 4 giai đoạn, cụ thể như sau
Bệnh thủy đậu có thời gian ủ bệnh khoảng 14 – 16 ngày và phát triển bệnh trong khoảng 10 – 21 ngày sau khi tiếp xúc với mầm bệnh thủy đậu. Ở giai đoạn này, trẻ em thường không xuất hiện các triệu chứng báo trước như người lớn và dấu hiệu ban đầu có thể là phát ban hoặc tổn thương khoang miệng.
Tại giai đoạn khởi phát, trẻ bị thủy đậu sẽ bắt đầu xuất hiện các triệu chứng như sốt nhẹ, đau đầu, chán ăn, uể oải, quấy khóc… Một số trường hợp, trẻ còn xuất hiện các nốt hạch sau tai, viêm họng… Những biểu hiện trong giai đoạn này thường khá giống với cảm lạnh thông thường nên phụ huynh dễ chủ quan và nhầm lẫn trong điều trị, vô tình bỏ lỡ “thời điểm vàng” để can thiệp y tế cho trẻ.
Ở giai đoạn toàn phát, các nốt ban màu hồng hoặc đỏ xuất hiện rõ ràng (người Việt hay gọi là nổi trái rạ) trên mặt, da đầu, thân, cánh tay, chân… Trong khoảng 10 – 12 giờ tiếp theo, các nốt sần này tiến triển thành các mụn nước, mụn mủ, chứa đầy dịch. Ban đầu chất dịch sẽ có màu trong, sau đó là hóa đục và cuối cùng đóng vảy. Ban đầu có thể xuất hiện trên ngực, lưng và mặt, sau đó lan ra toàn bộ cơ thể, bao gồm cả bên trong miệng, mí mắt hoặc vùng sinh dục.
Khi mụn nước bắt đầu phồng rộp, triệu chứng ngứa sẽ xuất hiện dữ dội hơn. Đáng lưu ý, những mụn nước này thường không nổi cộm lên đồng loạt mà sẽ xuất hiện theo từng đợt. Nhiều mụn nước liên tiếp mọc lên, trong khi những mụn khác đóng vảy. Các đốm ban mới có thể tiếp xúc xuất hiện theo từng đợt trong vòng 3 – 5 ngày tính từ sau khi phát ban.
Tại giai đoạn này, trẻ có thể xuất hiện các triệu chứng khác như sốt cao, chán ăn, nôn ói, đau đầu, mệt mỏi, khó chịu do mụn nước. Mặc dù bệnh thủy đậu có thể lây nhiễm ở tất cả giai đoạn nhưng giai đoạn toàn phát sẽ nguy cơ lây nhiễm cho người khác cao nhất.
Giai đoạn phục hồi của bệnh thủy đậu thường kéo dài khoảng 1 – 2 tuần, khi các mụn nước bắt đầu khô lại, đóng vảy và hồi phục dần. Thời điểm này, trẻ có thể xuất hiện triệu chứng ngứa nhiều do phần da non bắt đầu hình thành. Do đó, phụ huynh cần hết sức cẩn trọng, không để cho bé gãi hay cào khiến da bị tổn thương, nguy cơ nhiễm trùng và để lại sẹo sau này.
Hình ảnh bệnh thủy đậu ở trẻ em với biểu hiện nốt mụn nước qua các giai đoạn.
Mặc dù được đánh giá là bệnh lành tính nhưng nếu không điều trị đúng cách và kịp thời, thủy đậu ở trẻ nhỏ có thể để lại những biến chứng vô cùng nguy hiểm như:
Bệnh thủy đậu ở trẻ em thường xuất hiện các triệu chứng phổ biến như sau:
Đối với trẻ có bệnh về da như bị chàm hoặc viêm da, thường có nguy cơ biểu hiện nghiêm trọng về da khi mắc bệnh thủy đậu.
Người suy giảm miễn dịch – cả trẻ em và người lớn, nhất là người bệnh ung thư máu – thường có nhiều tổn thương hơn, có xuất huyết ở nền nốt phỏng, tổn thương lâu lành hơn so với người không suy giảm miễn dịch. Người suy giảm miễn dịch cũng có nguy cơ cao hơn bị các biến chứng nội tạng (xuất hiện ở 30 – 50% số ca bệnh); tỷ lệ tử vong có thể lên tới 15% khi không có điều trị kháng virus.
Trẻ bị suy giảm miễn dịch thường sẽ bị thủy đậu diễn biến nặng, tỷ lệ tử vong cũng cao hơn so với trẻ em có hệ miễn dịch bình thường. Những trẻ này có nguy cơ cao mắc bệnh thủy đậu thứ phát, lan tới các cơ quan quan trọng, hành sốt cao kéo dài và phát ban lan rộng. Nhóm trẻ có hệ miễn dịch suy yếu như sau:
Trẻ bị suy giảm miễn dịch khi bị thủy đậu sẽ có nguy cơ biến chứng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng.
Bệnh thủy đậu thường được chẩn đoán lâm sàng dựa trên phát ban đặc trưng và các đợt tổn thương liên tiếp. Căn cứ theo tiểu mục 3 Mục 3 Bệnh Thủy Đậu tại Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh truyền nhiễm được ban hành kèm theo Quyết định 5642/QĐ-BYT năm 2015, việc chẩn đoán bệnh thủy đậu bao gồm 04 bước như sau:
Dựa trên các biểu hiện từ các nốt phát ban đặc trưng của người bệnh:
Chẩn đoán thủy đậu chủ yếu dựa trên lâm sàng và không cần xét nghiệm khẳng định. Ban thủy đậu đặc trưng dạng phỏng nhiều lứa tuổi rải rác toàn thân ở người bệnh có tiền sử tiếp xúc với người bị thủy đậu là những gợi ý cho chẩn đoán.
Các xét nghiệm khẳng định thủy đậu không sẵn có trong lâm sàng và rất ít khi được sử dụng; bao gồm:
Cần phân biệt thủy đậu với một số bệnh có phát ban dạng phỏng nước như bệnh tay chân miệng liên quan tới Enterovirus, bệnh do Herpes simplex, viêm da mủ và một số bệnh khác:
Điều trị thủy đậu ở trẻ có hai phương pháp bao gồm: Phương pháp làm giảm các triệu chứng và phương pháp nhắm vào nhiễm trùng. Đối với phương pháp làm giảm triệu chứng, thường sẽ tập trung làm vào hạ nhiệt và chăm sóc tổn thương da:
Đối với phương pháp nhắm vào điều trị nhiễm trùng, thường sẽ sử dụng thuốc acyclovir hoặc một loại thuốc tương tự acyclovir như valacyclovir. Loại thuốc acyclovir được dùng dưới dạng viên hoặc tiêm.
Chăm sóc vùng da tổn thương cho trẻ bị thủy đậu đúng cách, hỗ trợ quá trình hồi phục, ngăn ngừa biến chứng.
Ở những trẻ khỏe mạnh, bệnh thủy đậu thường không cần phải nhập viện điều trị y tế, bác sĩ sẽ chỉ định chăm sóc cho trẻ tại nhà và tư vấn các loại thuốc giúp giảm ngứa hoặc giảm đau cho trẻ. Một số lưu ý khi chăm sóc trẻ bị thủy đậu tại nhà như sau:
Hầu hết các trường hợp trẻ bị thủy đậu đều có thể chữa khỏi và hồi phục thông qua chăm sóc và hỗ trợ điều trị đúng cách tại nhà. Chế độ dinh dưỡng là một trong những yếu tố quan trọng mà phụ huynh cần lưu ý để hạn chế mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng như cho trẻ ăn thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, rau và trái cây không có tính axit…Bên cạnh đó, có một số thực phẩm cần tránh trong thời gian bị thủy đậu như:
Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, phụ huynh cần đặc biệt lưu ý đến một số điều sau khi chăm sóc trẻ bị thủy đậu tại nhà như sau:
Trẻ bị thủy đậu cần tránh các loại thực phẩm cay, mặn, có tính axit… vì sẽ làm trầm trọng thêm triệu chứng.
Tùy vào thể trạng, tình hình nhiễm trùng của mỗi trẻ mà thời gian hồi phục sẽ có sự thay đổi khác nhau. Theo Dịch vụ Y tế Quốc gia Vương Quốc Anh (NHS), bệnh thủy đậu ở trẻ em có thể tự khỏi sau 1 đến 2 tuần (tính từ khi triệu chứng khởi phát) mà không cần đi khám bác sĩ. Trong suốt quá trình hành bệnh, từ khi nhiễm virus (ủ bệnh) đến khi bệnh phát triển và hồi phục, có khoảng 21 ngày để virus phát triển và 10 ngày để các triệu chứng biểu hiện và hồi phục.
Cách phòng ngừa bệnh thủy đậu ở trẻ em cần thực hiện nghiêm túc để hạn chế nguy cơ lây lan và biến chứng nguy hiểm. Dưới đây là các biện pháp hiệu quả nhất:
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC Hoa Kỳ), cách tốt nhất để ngừa bệnh thủy đậu là tiêm vắc xin. Theo nghiên cứu, vắc xin đã giúp ngăn ngừa bệnh thủy đậu ở 85% trẻ em được tiêm chủng và 97% khả năng chống lại bệnh nặng.
Lịch tiêm vắc xin phòng thủy đậu:
Khi có ca bệnh tại trường học hoặc khu dân cư, cần chủ động khai báo y tế và theo dõi chặt sức khỏe trẻ trong vòng 10–21 ngày.
Bệnh thủy đậu ở trẻ em là bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ lây truyền, có nguy cơ gây ra biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị đúng cách. Bệnh thủy đậu không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ mà còn gây gánh nặng bệnh tật nặng nề trong cộng đồng. Thông qua bài viết trên đây, hy vọng sẽ cung cấp những kiến thức hữu ích cho Quý phụ huynh để phòng ngừa và đẩy lùi thủy đậu ở trẻ.