Đái tháo đường là một trong những căn bệnh có nguy cơ tử vong cao. Người mắc bệnh đái tháo đường cần được chẩn đoán và chữa trị kịp thời để ngăn chặn nguy cơ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm. Vậy, dấu hiệu đái tháo đường là gì? Nguyên nhân đái tháo đường do đâu? Phòng ngừa và kiểm soát bệnh bằng cách nào? Tất cả sẽ được Trung tâm Dinh dưỡng Nutrihome bật mí trong bài viết sau đây.
Đái tháo đường (hay tiểu đường, đái đường, tên tiếng anh là Diabetes) là bệnh lý xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ lượng hormone insulin cần thiết phục vụ cho quá trình chuyển hóa đường huyết hoặc không thể dùng insulin hiệu quả như bình thường; từ đó, dẫn đến gia tăng nồng độ đường glucose trong máu.
Tính đến thời điểm hiện tại, có 3 loại bệnh đái tháo đường phổ biến (chiếm đến 98 – 99%) bao gồm đái tháo đường tuýp 1, 2 và đái tháo đường thai kỳ và các loại đái tháo đường khác như do bệnh lý, đột biến gen hoặc xảy ra do tác dụng phụ của phác đồ điều trị bệnh bằng thuốc, cụ thể như sau:
Bệnh đái tháo đường tuýp 1 xảy ra khi hệ miễn dịch của cơ thể “tấn công” thay vì bảo vệ các tế bào beta trong tuyến tụy; điều này đã khiến cho tế bào này mất đi khả năng sản xuất insulin. Như vậy, tuyến tụy của người bị tiểu đường tuýp 1 sẽ không tiết ra bất kỳ lượng insulin nào.
Đây là bệnh lý tự miễn (hình thành do hệ thống miễn dịch không hoạt động đúng cách) có mức độ phổ biến khoảng từ 5 – 10% trên tổng số trường hợp mắc bệnh tiểu đường và không thể được chữa trị dứt điểm (bệnh mạn tính). Do đó, để có thể kiểm soát bệnh, người bị tiểu đường tuýp 1 cần phải tiêm insulin mỗi ngày để phần nào duy trì khả năng chuyển hóa đường huyết và trao đổi chất trong cơ thể.
Đái tháo đường tuýp 2 cũng là một bệnh lý mạn tính, xảy ra khi các tế bào trong cơ thể không phản ứng với insulin (hay kháng insulin). Đây là căn bệnh phổ biến khi số người mắc phải chiếm tỉ lệ đến 90 – 95% trên tổng số trường hợp bệnh tiểu đường.
Người bị tiểu đường tuýp 2 không thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh lý này mà chỉ có thể kiểm soát bệnh qua việc cải thiện lối sinh hoạt (bao gồm xây dựng chế độ ăn uống khoa học, rèn luyện thể chất phù hợp…) và tuân thủ phác đồ điều trị bằng thuốc của bác sĩ.
Đái tháo đường thai kỳ là bệnh tiểu đường xảy ra trong quá trình mang thai. Đái tháo đường trong thai kỳ được xem là căn bệnh phổ biến; bởi vì, trên toàn cầu có khoảng 3 – 20% thai phụ mắc phải bệnh lý này. Theo khuyến cáo, bệnh tiểu đường thai kỳ có thể khiến cho nguy cơ bị tiểu đường tuýp 2 tăng cao gấp 11 lần so với thai phụ khỏe mạnh.
Nếu không kiểm soát tốt lượng đường trong máu, thai phụ có thể phải đối mặt với các vấn đề đe dọa tính mạng như tiền sản giật, tăng nguy cơ sản giật gấp 4 lần so với thai phụ không bị tiểu đường, băng huyết sau sinh….
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đái tháo đường trong thai kỳ được phát hiện lần đầu ở thai phụ được phân loại thành 2 nhóm, bao gồm:
Ngoài đái tháo đường tuýp 1, 2 và đái tháo đường trong thai kỳ vẫn còn các loại khác ít phổ biến hơn, bao gồm:
Đây là bệnh lý tự miễn tiềm ẩn ở người trưởng thành (đặc biệt là sau độ tuổi 30), bệnh sở hữu các đặc điểm di truyền, trao đổi chất, miễn dịch tương tự với bệnh tiểu đường tuýp 1, 2 nên được gọi là bệnh tiểu đường tuýp 1.5. Tuy nhiên, ở người bệnh tiểu đường LADA, quá trình tổn thương tuyến tụy sẽ diễn ra chậm hơn so với tiểu đường tuýp 1;
Đối với bệnh tiểu đường LADA, quá trình sản xuất insulin trong cơ thể vẫn hoạt động và có thể tạo ra được một lượng nhất định. Vì vậy, trong vòng ít nhất 6 tháng đầu sau khi được chẩn đoán, người bệnh không cần phải tiêm insulin vào cơ thể hàng ngày;
Khác với tiểu đường tuýp 1, chức năng của các tế bào beta tuyến tụy có thể được bảo tồn khoảng từ 3 đến 5 năm kể từ khi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường MODY. Do đó, phần lớn bệnh không gây ra bất kỳ triệu chứng điển hình nào. Bệnh lý này thường được phát hiện ở đối tượng như trẻ em, thanh thiếu niên, thanh niên không bị béo phì;
Dựa vào từng loại đột biến gen trội có liên quan đến chức năng hoạt động của tuyến tụy, bệnh tiểu đường MODY được phân thành tổng cộng 14 phân loại (từ MODY 1 – MODY 14); trong đó, phân nhóm từ MODY 1 – MODY 3 có mức độ phổ biến cao khi chiếm đến 95% trường hợp mắc phải bệnh lý này;
Bệnh đái tháo đường có thể bắt nguồn từ quá trình sử dụng thuốc dài hạn (như thuốc điều trị bệnh HIV / AIDS, thuốc corticosteroids, các loại thuốc điều trị ung thư…) hoặc khởi phát như triệu chứng của các bệnh lý khác (bao gồm viêm tụy, xơ nang, Hội chứng Wolfram, Hội chứng Alström…).
Thống kê vào năm 2019 cho thấy, trên toàn cầu có khoảng 463 triệu người mắc bệnh đái tháo đường (tương đương với tỉ lệ 9.3 %). Theo đó, ước tính vào năm 2030 số người mắc bệnh tiểu đường có thể đạt ngưỡng 578 triệu người và năm 2045 có thể lên đến 700 triệu người. Cùng năm 2019, có khoảng 3.5 triệu người bị đái tháo đường tại Việt Nam; đến năm 2021, con số này đã lên đến khoảng 5 triệu người (tương đương với tỉ lệ 7.1% dân số trưởng thành).
Có thể thấy rằng, chỉ trong 2 năm mà tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường tại Việt Nam đã gia tăng gần 43%. Bên cạnh đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết, số người mắc tiền tiểu đường đã tăng gấp 3 lần so với người bệnh tiểu đường. Theo dự đoán của các chuyên gia, so với năm 2019 thì tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường tại nước ta vào năm 2045 có thể gia tăng gấp 2 lần. Điều đó có nghĩa là có thể có khoảng 7 triệu người ở độ tuổi trưởng thành mắc phải bệnh lý này (tương đương khoảng 10% dân số trưởng thành).
Như vậy, nếu như không biện pháp phòng ngừa và kiểm soát đái tháo đường trong cộng đồng sẽ gây áp lực lớn lên mạng lưới y tế, cũng như tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế cả nước.
Biểu hiện của đái tháo đường có thể khác nhau tùy thuộc vào từng phân loại bệnh, cụ thể như sau:
Một số triệu chứng bệnh tiểu đường tuýp 1 điển hình như:
Bên cạnh các triệu chứng tương tự như đái tháo đường tuýp 1 thì bệnh tiểu đường tuýp 2 còn có thêm một số biểu hiện đặc trưng như:
Phần lớn, đái tháo đường thai kỳ có triệu chứng tương tự như đái tháo đường tuýp 1, 2 bao gồm đi tiểu nhiều, khát nước, mắt mờ, mệt mỏi, viêm bàng quang…. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường dễ bị nhầm lẫn với những thay đổi sinh lý trong thời kỳ mang thai nên rất khó được nhận biết. Do đó, để có thể xác định chính xác bệnh tiểu đường thai kỳ, thai phụ cần thực hiện xét nghiệm đường huyết định kỳ theo chỉ định từ bác sĩ sản khoa.
Nguyên nhân gây ra từng loại bệnh đái tháo đường không giống nhau, cụ thể như sau:
Nguyên nhân gây bệnh đái tháo đường tuýp 1 đến từ sự tấn công các tế bào beta tuyến tụy (mang chức năng sản xuất hormone insulin) của hệ thống thống miễn dịch trong cơ thể. Khi các tế bào beta bị hủy hoại sẽ khiến cho khả năng sản xuất insulin của tuyến tụy bị mất đi. Lúc này, cơ thể không nhận được hormone insulin để kích hoạt cơ chế hấp thụ glucose trong máu làm gia tăng nồng độ đường huyết, gây ra đái tháo đường tuýp 1.
Nguyên nhân khiến một người bị bệnh đái tháo đường tuýp 2 đến từ tình trạng kháng insulin của cơ thể – tế bào cơ thể mất khả năng phản ứng với insulin. Trên thực tế, insulin được xem như một “tín hiệu” sinh học có tác động kích hoạt cơ thể hấp thụ glucose ở màng sinh chất của tế bào. Thế nến, nếu tế bào cơ thể mất khả năng phản ứng với chất này, sẽ khiến cho màng sinh chất khổ thể hấp thụ glucose dẫn đến lượng đường huyết bị tăng cao và gây ra bệnh tiểu đường tuýp 2.
Ở thời gian đầu của bệnh, tuyến tụy vẫn có thể cố gắng sản xuất một lượng ít hormone insulin để “chống chọi” với tình trạng kháng insulin trong cơ thể. Tuy vậy, nếu như bệnh chữa trị kịp thời, tuyến tụy sẽ rơi vào trạng thái hoạt động quá sức, không thể tiếp tục sản xuất hormone insulin và gây ra tình trạng thiếu hụt chất này; từ đó, thúc đẩy bệnh tiểu đường tuýp 2 tiến triển nhanh chóng.
Trong quá trình mang thai, cơ thể người mẹ sẽ gia tăng sản xuất hormone để nuôi dưỡng thai nhi thông qua nhau thai, bao gồm cortisol, estrogen, lactogen…. Một vài loại hormone có thể khiến cho cơ thể người mẹ gặp khó khăn trong việc sản xuất và sử dụng insulin (kháng insulin). Khi đó, để cân bằng lượng đường huyết trong cơ thể, tuyến tụy cần phải tăng cường hoạt động để có thể tạo ra đủ lượng insulin cần thiết. Kéo dài tình trạng này sẽ khiến cho tuyến tụy bị “quá tải” và mất khả năng sản xuất insulin; lúc này, lượng đường huyết sẽ tăng cao và gây ra bệnh đái tháo đường trong thai kỳ.
Yếu tố nguy cơ bị đái tháo đường là khái niệm chỉ các tác nhân gián tiếp gây ra bệnh, chúng có thể làm gia tăng nguy cơ bị tiểu đường ở một người. Các yếu tố đó bao gồm:
Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến bị đái tháo đường tuýp 1 điển hình như:
Một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 bao gồm:
Một số yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tiểu đường thai kỳ bao gồm:
Bệnh đái tháo đường có nguy hiểm không? Câu trả lời là “CÓ”, bởi vì nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời bệnh lý này có thể dẫn đến các biến chứng như:
Ngoài ra, những biến chứng tiểu đường nêu trên đều góp phần gây tăng nguy cơ tử vong ở người bệnh gấp 2 – 3 lần so với người khỏe mạnh. Do đó, mọi người không được chủ quan xem thường các biến chứng này.
Để chẩn đoán đái tháo đường, bên cạnh việc cung cấp triệu chứng lâm sàng và tiền sử y tế thì người bệnh cần thực hiện một số các xét nghiệm máu để bác sĩ đánh giá được nồng độ glucose trong máu. Các xét nghiệm máu chẩn đoán bệnh tiểu đường bao gồm:
Để có thể thực hiện xét nghiệm này, bạn cần nhịn ăn ít nhất 8 giờ đồng hồ. Nếu chỉ số xét nghiệm dưới 100 mg/DL có nghĩa là đường huyết bình thường; từ 100 – 125 mg/dL được chẩn đoán là tiền tiểu đường; kết quả hai lần xét nghiệm khác nhau đạt chỉ số từ 126 mg/dL trở lên được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường.
Xét nghiệm này sẽ đo lượng glucose gắn với hemoglobin trong hồng cầu và phản ánh mức đường huyết trong khoảng 3 tháng (3 tháng là tuổi thọ trung bình của tế bào hồng cầu). Glucose trong máu càng cao thì mức glucose gắn với hemoglobin càng nhiều. Kết quả xét nghiệm HbA1c bình thường khi chỉ số dưới 5.7%; tiền tiểu đường khi chỉ số từ 5.7 – 6.4%; tiểu đường khi chỉ số từ 6.5% trở lên.
Xét nghiệm OGTT được áp dụng để đo lường khả năng sử dụng đường glucose của cơ thể. Đây là xét nghiệm cần thiết trong quá trình chẩn đoán đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường thai kỳ. Bạn sẽ đo đường huyết một lần sau khi đã nhịn ăn qua đêm và đo lại một lần nữa sau khi đã uống một lượng đường lớn. Kết quả xét nghiệm OGTT là bình thường nếu chỉ số sau 2 giờ dưới 140 mg/dL; từ 140 – 199 mg/dL được chẩn đoán là tiền tiểu đường; từ 200 mg/dL trở lên được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường.
Nếu kết quả xét nghiệm Hemoglobin A1c lớn hơn 6.5% hoặc xét nghiệm đường huyết khi đói cao hơn 126 mg/dL bác sĩ sẽ chỉ định người bệnh thực hiện xét nghiệm OGTT. Bên cạnh đó, bác sĩ cũng có thể chỉ định xét nghiệm này khi nghi ngờ một người bị tiểu đường tuýp 2. Hầu hết tất cả phụ nữ mang thai đều cần phải thực hiện xét nghiệm này vào tuần thai thứ 24 – 28, để có thể sớm xác định được tình trạng tiểu đường thai kỳ.
Bạn có thể thực hiện xét nghiệm này bất cứ lúc nào mà không phải nhịn ăn trước đó. Bác sĩ có thể sẽ chỉ định bạn thực hiện xét nghiệm đường huyết ngẫu nhiên vài lần trong một ngày. Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy chỉ số từ 200 mg/dL trở lên cùng với các triệu chứng kèm theo như đi tiểu thường xuyên, khát nước liên tục… thì có thể bạn đã mắc bệnh tiểu đường.
Tùy thuộc vào từng phân loại bệnh, mức độ nghiêm trọng của bệnh và các yếu tố cá nhân khác, bác sĩ sẽ cân nhắc đưa ra phác đồ điều trị bệnh đái tháo đường phù hợp. Sau đây là tổng quan các phương pháp điều trị đái tháo đường phổ biến:
Tiêm insulin là phương pháp được sử dụng chủ yếu để điều trị đái tháo đường tuýp 1. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể cân nhắc chỉ định người bệnh tiêm insulin để điều trị đái tháo đường tuýp 2. Các loại insulin được sử dụng phổ biến bao gồm insulin tác dụng nhanh, insulin tác dụng kéo dài, insulin trộn giữa loại nhanh và loại kéo dài, insulin kết hợp GLP-1-Soliqua (glargine-lixisenatide).
Ngoài việc áp dụng các biện pháp điều trị đặc hiệu, người bị tiểu đường tuýp 1, tuýp 2 cần quản lý lối sống để hỗ trợ kiểm soát đường huyết luôn ở mức an toàn, bao gồm điều chỉnh chế độ ăn uống, duy trì cân nặng khỏe mạnh, tăng cường rèn luyện thể chất và thăm khám sức khỏe định kỳ.
Mục tiêu của điều trị đái tháo đường thai kỳ là kiểm soát lượng đường huyết ở mức an toàn. Để điều trị tiểu đường thai kỳ, thai phụ cần:
Trong trường hợp chế độ dinh dưỡng và vận động không giúp kiểm soát được lượng đường huyết, bác sĩ có thể sẽ cân nhắc việc chỉ định thai phụ sử dụng thuốc (Metformin).
Đái tháo đường là bệnh mạn tính. Vì vậy, bệnh đái tháo đường KHÔNG THỂ CHỮA KHỎI hoàn toàn. Thế nhưng, bệnh đái tháo đường có thể được kiểm soát bằng việc áp dụng phác đồ điều trị phù hợp kết hợp cùng lối sống khoa học. Điều này sẽ giúp tình trạng sức khỏe của người bệnh được ổn định, giảm thiểu hoặc phòng tránh nguy cơ khởi phát các biến chứng tiểu đường nghiêm trọng.
Người bệnh đái tháo đường cần có chế độ chăm sóc chuyên biệt, chú trọng vào việc điều chỉnh thói quen vận động, chế độ dinh dưỡng và có biện pháp phản ứng với các tình huống khẩn cấp. Cụ thể như sau:
Đái tháo đường có thể được phòng ngừa bằng cách xây dựng lối sống khoa học bao gồm thói quen sinh hoạt khoa học, kiểm soát chế độ dinh dưỡng, tăng cường rèn luyện thể chất. Đồng thời, mỗi người cần duy trì thói quen thăm khám sức khỏe tổng quát 6 tháng / lần để có thể sớm phát hiện nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường; từ đó, có biện pháp ngăn chặn phù hợp.
Nếu nghi ngờ bản thân có nguy cơ bị đái tháo đường, ngay khi cơ thể xuất hiện một hoặc nhiều dấu hiệu sau đây, bạn nên sớm đến bệnh viện để bác sĩ trực tiếp thăm khám:
Ngoài ra, các chuyên gia y tế khuyến cáo rằng, những đối tượng dưới đây nên sớm đến bệnh viện để thăm khám và sàng lọc đái tháo đường ngay cả khi chưa xuất hiện triệu chứng của bệnh, bao gồm:
Nếu như bạn quan tâm về nguy cơ đái tháo đường hoặc nhận thấy bản thân có các triệu chứng của bệnh thì nên cân nhắc sớm đến thăm khám tại chuyên khoa Nội tiết thuộc Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh. Nơi đây áp dụng các phương pháp chẩn đoán và điều trị tiên tiến, giúp bác sĩ có thể xác định được chính xác tình trạng bệnh; từ đó, đưa ra lộ trình điều trị đái tháo đường phù hợp với từng người bệnh.
Để đặt lịch tầm soát bệnh đái tháo đường tại Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, bạn hãy liên hệ số hotline 093 180 6858 – 028 7102 6789 (TP.HCM) hay 024 7106 6858 – 024 3872 3872 (Hà Nội).
Như vậy, đái tháo đường là căn bệnh nguy hiểm, tiềm ẩn nhiều biến chứng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Nếu không được phát hiện sớm cũng như có biện pháp chữa trị phù hợp và kịp thời, bệnh có thể đe dọa tính mạng người bệnh. Vì vậy, để bảo vệ sức khỏe, bạn nên tầm soát sớm khi có yếu tố nguy cơ hoặc khi có dấu hiệu của bệnh đái tháo đường.